Trang chủ Khác Chuyên gia đề xuất giải pháp kiểm soát lạm phát giai đoạn...

Chuyên gia đề xuất giải pháp kiểm soát lạm phát giai đoạn 2021-2025

DNĐV – TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê nhận định, nhìn chung, dự báo lạm phát cả giai đoạn 2021-2025 khoảng 4% – đạt mục tiêu kế hoạch đề ra trong kiểm soát lạm phát cả thời kỳ kế hoạch 5 năm.

Kinh tế Việt Nam trong quý 1/2022 đã có sự khởi sắc và lạm phát 4 tháng trong tầm kiểm soát là điều đáng ghi nhận. Trong đó, tốc độ tăng Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 4 tháng đầu năm 2022 ở mức 2,1% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù giá xăng dầu tăng cao và giá nguyên vật liệu dùng cho sản xuất tăng, do sức mua của người tiêu dùng yếu nên cộng đồng doanh nghiệp chấp nhận giảm bớt lợi nhuận để không tăng giá bán sản phẩm cũng là yếu tố góp phần kiểm soát lạm phát.

TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê nhận định: “CPI được kiểm soát là do Chính phủ chủ động chỉ đạo quyết liệt các Bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp bình ổn giá, hạn chế những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế – xã hội”.

Theo ông Lâm, các chính sách được ban hành kịp thời đã giảm áp lực đáng kể lên mặt bằng giá như giảm thuế VAT từ 10% xuống còn 8%; giảm mức thu 37 khoản phí, lệ phí trong 6 tháng đầu năm 2022; giảm 50% thuế bảo vệ môi trường đối với xăng…

TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê

3 nhóm yếu tố lớn tạo áp lực lên lạm phát năm 2022

Mặc dù lạm phát trong 4 tháng đầu năm được kiểm soát, nhưng theo TS. Nguyễn Bích Lâm, áp lực lạm phát trong những tháng còn lại của năm 2022 và năm 2023 là rất lớn. Cụ thể, có 3 nhóm chính gây áp lực lạm phát đối với kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

Thứ nhất, lạm phát chuỗi cung ứng là nhóm yếu tố tạo áp lực lớn nhất đến lạm phát của nền kinh tế trong thời gian tới. Kinh tế nước ta có độ mở lớn, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài, với tỷ lệ 37% chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu trong tổng chi phí nguyên vật liệu toàn nền kinh tế. Tỷ lệ này trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo – ngành có vai trò là động lực tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế chiếm 50,98%.

Bên cạnh đó, đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu do đại dịch Covid-19 gây ra chưa được khắc phục, thì khủng hoảng Nga – Ukraine kéo theo các biện pháp trừng phạt của Mỹ và phương Tây đối với Nga… gây khó khăn về nguồn cung các loại nguyên, nhiên vật liệu trong thời gian tới, ảnh hưởng đến quá trình phục hồi và phát triển kinh tế và gia tăng áp lực lạm phát đối với các quốc gia.

Đặc biệt, nguy cơ mới có thể hiện hữu và ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đối với áp lực gia tăng lạm phát và suy giảm tăng trưởng kinh tế Việt Nam khi Trung Quốc – đối tác thương mại chính của Việt Nam đang theo đuổi chính sách Zero Covid, tăng trưởng chậm lại của quốc gia này, cũng làm gián đoạn hoạt động thương mại Việt Nam – Trung Quốc. Theo ông Lâm, điều này dẫn đến gián đoạn chuỗi cung ứng, khan hiếm nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, tác động xấu tới tăng trưởng kinh tế và giá cả hàng hóa sẽ càng bị đẩy lên cao.

Thứ hai, giá nguyên, nhiên vật liệu tăng cao. Đại dịch Covid-19 và khủng hoảng Nga – Ukraine đã đẩy giá nguyên, nhiên vật liệu và lạm phát thế giới tăng cao, lập kỷ lục trong mấy thập kỷ gần đây. Ông Lâm dự báo, năm 2022, giá xăng dầu tăng và đứng ở mức cao sẽ gây áp lực lạm phát và tạo mặt bằng giá mới cao hơn của nền kinh tế.

Ngoài ra, kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu. Kinh tế Việt Nam có đặc điểm khi giá nguyên vật liệu tăng 1% thì giá sản phẩm đầu ra tăng 2,06%, đồng nghĩa với gia tăng lạm phát của nền kinh tế, do đó rủi ro nhập khẩu lạm phát là không thể tránh khỏi trong bối cảnh các nền kinh tế là đối tác thương mại lớn, quan trọng hàng đầu của Việt Nam, như: Mỹ, EU, Hàn Quốc… đều dự báo lạm phát ở mức đáng lo ngại. Đồng thời, trong nước, chi phí tiền lương hay chi phí lao động cũng là yếu tố gây áp lực lên lạm phát của nền kinh tế trong năm 2022.

Thứ ba, tổng cầu tăng đột biến trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng. Chính phủ đang chỉ đạo khẩn trương triển khai thực hiện trong hai năm 2022-2023 Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội với quy mô 350 nghìn tỷ đồng, cùng với các gói hỗ trợ của năm 2021 đang thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế sẽ làm cho tổng cầu tăng đột biến, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tăng mạnh sau thời gian dài chịu ảnh hưởng của đại dịch là áp lực lớn lên lạm phát trong năm 2022 và 2023.

“Mặc dù cung tiền không gây áp lực lên lạm phát, tuy nhiên, gói đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng trị giá 113.550 tỷ đồng có khả năng gây áp lực lên lạm phát”, TS. Bích Lâm nói.

Dự báo trong tầm kiểm soát

Từ góc độ của chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Bích Lâm dự báo lạm phát của Việt Nam năm 2022 nằm trong khoảng 4% – 4,5%. Với độ trễ của gói phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội tại Việt Nam, đặt trong bối cảnh năm 2023 lạm phát vẫn ở mức cao so với lạm phát mục tiêu của các nền kinh tế là đối tác quan trọng của kinh tế Việt Nam, dự báo lạm phát năm 2023 của Việt Nam khoảng 5%- 5,5%. Nhìn chung, dự báo lạm phát cả giai đoạn 2021-2025 khoảng 4% – đạt mục tiêu kế hoạch đề ra trong kiểm soát lạm phát cả thời kỳ kế hoạch 5 năm.

Theo đó, TS Nguyễn Bích Lâm đề xuất 8 giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong thời gian tới, cụ thể như sau: Một là, Chính phủ cần kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng thúc đẩy tổng cung, giảm áp lực lạm phát;

Hai là, cần đa dạng hóa nguồn cung. Đảm bảo nguồn cung từng nhóm nguyên vật liệu của mỗi ngành không phụ thuộc vào một thị trường, khu vực. Bộ Công Thương chủ trì, cùng với các bộ, ngành liên quan đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm nguồn cung và thị trường tiêu thụ sản phẩm;

Ba là, cần có dự báo, dự trữ xăng dầu, trong đó phải dự trữ bằng hàng, chứ không phải bằng tiền, nhằm đảm bảo an ninh năng lượng;

Bốn là, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ, thực hiện hài hoà chính sách tài khoá và tiền tệ;

Năm là, cộng đồng doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị đầy đủ các điều kiện đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa;

Sáu là, đối với xăng dầu, Bộ Công Thương cần kiến nghị với Chính phủ mở rộng, nâng cao năng lực kho dự trữ xăng dầu đáp ứng dài hơn nhu cầu của nền kinh tế, giảm bớt lệ thuộc và tác hại của giá xăng dầu thế giới tăng cao đến sự ổn định và phát triển kinh tế. Bộ Tài chính cần rà soát và tính toán lại các mức chi phí trong cơ cấu tính giá cơ sở mặt hàng xăng dầu và các loại thuế, phí;

Bảy là, Ban Chỉ đạo điều hành giá của Chính phủ cần theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả, lạm phát trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ gây lạm phát trong nước; chỉ đạo các Bộ liên quan thực hiện hiệu quả và linh hoạt vai trò điều tiết, bình ổn giá các mặt hàng nhà nước quản lý như điện, dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục;

Tám là, các cơ quan truyền thông cần thực hiện hiệu quả hoạt động truyền thông nhằm thông tin kịp thời, chính xác và rõ ràng về các chính sách, giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, loại bỏ thông tin sai lệch về giá cả thị trường, không để xảy ra hiện tượng lạm phát do tâm lý từ thông tin sai gây ra.

Thanh Tùng (theo VietQ)

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here